19 May 2022

Cha tôi



Những ngày Tết đến xuân về là những ngày mà tôi nhớ đến cha nhiều nhất, vì cha đã ra đi vào đúng ngày mùng 2 Tết năm 2004. Nhớ cha, mấy anh em tôi luôn tụ tập quây quần ngày Tết để thấy lại không khí gia đình ngày xưa, ôn lại bao nhiêu kỷ niệm xưa.
Từ thủa nhỏ, tôi đã luôn thấy thiếu vắng người cha, vì cha làm việc ở Hà Nội, còn mấy mẹ con tôi thì lang thang nơi sơ tán trong chiến tranh. Thời đó làm gì có các phương tiện giao thông công cộng tiện lợi như bây giờ. Cha phải cọc cạch đạp xe từ Hà Nội về Ninh Bình/Hà Nam mất cả ngày trời, nên cha ít khi về thăm nhà. Mỗi lần cha về thăm, thế nào tôi cũng có một món quà nho nhỏ. Lúc nhỏ, món quà là cây bút, cuốn sách. Khi lớn hơn tôi còn có quà là đôi dép, mảnh vải may áo. Sau chiến tranh, hàng hóa khan hiếm. Thời gian học cấp ba, có lúc tôi chỉ có một cái áo tươm tất có thể mặc ra đường, lúc nào giặt áo là phải ngồi nhà chờ áo khô. Có lần tôi đi xem phim ngoài trời bị chen lấn mất đôi dép, rồi cả tháng trời không có dép phải đi chân đất. Vì vậy mà mấy món quà nhỏ của cha, tấm vải phin nõn để may áo hay đôi dép là vô cùng quí giá.
Người cha thường thương con gái hơn con trai thì phải. Hồi nhỏ tôi hay bị anh trai bắt nạt. Mẹ thì bao giờ cũng bênh con trai. Mẹ chẳng bao giờ quan tâm đến nội dung kiện cáo, mà luôn luôn nói: "Hư thì anh nó đánh cho là đúng rồi". Còn cha thì luôn luôn bênh mấy đứa con gái. Cha còn dọa anh tôi nếu còn bắt nạt em sẽ bị cha treo lên cây đánh cho một trận. Tuy nhiên cha ít khi về, nên tôi và em gái vẫn thường xuyên bị bắt nạt, bị đánh mà không có ai bênh. Khỏi phải nói thủa đó tôi luôn mong chờ cha về thăm như thế nào.
Thời bao cấp, cha tôi là công chức nghèo ở Hà Nội. Có một câu chuyện vui cha kể mà tôi nhớ mãi. Hồi đó có đôi dép nhựa Tiền phong trắng là cả một sự ăn chơi sành điệu. Đến khi dép hỏng bán đồng nát cũng vẫn được một món tiền kha khá. Chủ nhật kia có ông bạn nhà văn đến chơi mà cha hết sạch tiền đi chợ. Thế là cha đem bán đôi dép Tiền phong đứt quai được 5 đồng, mua lạng thịt mớ rau về nấu cơm đãi khách. Rồi lúc ăn cơm, cha cứ cười thầm, vì nghĩ cha với ông bạn mỗi người được ăn một cái dép.
Khi đi du học xa nhà, thời chưa có internet, chỉ có thư từ qua bưu điện, tôi luôn nhận được thư của cha hàng tuần. Trong nhà, cha là người chăm chỉ viết thư cho tôi nhất, tuy rằng tất cả những lá thư của cha gần như giống nhau, ít khi kể chuyện gia đình, toàn hỏi thăm tình hình học hành và cuộc sống nơi xứ người.

Khi tôi chuyển công tác từ Hà Nội vào miền nam, cha cũng là người đồng hành cùng mẹ con tôi theo chuyến tàu hỏa từ Bắc vào Nam. Thể trạng sức khỏe của cha thích hợp với khí hậu trong miền nam hơn nên sau đó cha vào ở luôn cùng mẹ con tôi mười mấy năm. Khi ốm nặng, cha mới phải trở về Hà Nội để chữa trị và để ra đi trong vòng tay gia đình. Vì hơn 40 năm hút thuốc lá, cha bị bệnh suy tim nặng, viêm phổi cấp. Vào cấp cứu trong bệnh viện, cha còn vui vẻ khoe với bác sĩ về thành tích 40 năm hút thuốc của mình, lạc quan tếu đến thế là cùng.
Cha rất ham đọc sách, đọc báo. Trong bữa ăn sáng, cha thường là người điểm tin tức cho tôi. Nhớ ngày 11.9 năm nào, khi mà nước Mỹ bị khủng bố, cha là người báo tin đầu tiên cho tôi vào sáng sớm. Mấy ông bà hàng xóm cũng luôn tín nhiệm việc điểm báo của cha. Thường cha đi ngủ sớm, để rồi khoảng 2-3 giờ sáng đã thức dậy để nghe tin tức và viết sách.

Vài lần tôi gặp trắc trở trong công việc. Nhìn thấy vẻ mặt ưu tư trầm cảm của tôi, cha hỏi thăm và khích lệ tôi vượt qua. Rất nhiều chuyện đời sống, chuyện công việc được tôi đem ra trao đổi hỏi ý kiến cha, cha luôn quan tâm góp ý và động viên con gái đúng lúc.

Làm báo như nghề nghiệp, về hưu rồi cha viết văn để...kiếm thêm tiền. Cha về hưu vào những năm tám mươi của thế kỷ trước, là những năm rất khó khăn về kinh tế. Đồng lương hưu không đủ sống, chẳng có nguồn dự trữ nào, như bao cán bộ công chức hưu trí khác, cha cũng phải tìm cách mưu sinh. Lúc đầu, cha thuê mặt bằng mở một cái quán bán sách bán báo ở Hà Nội. Suốt ngày phơi mặt ra đường, chỉ được cái có thể đọc sách báo cả ngày không hết, nhưng ế quá, cuối cùng rồi cha cũng phải dẹp quán. Cha quay sang viết sách, nghĩ rằng với vốn sống và kinh nghiệm làm báo cả đời của mình, may ra sẽ thành công. Viết mấy cuốn sách rồi cha mới nghiệm ra, chỉ biết viết mà không biết "lách" thì cũng hỏng. Thế là cha thay đổi đề tài viết về các vụ án kinh tế nóng bỏng, đổi tên sách thật hấp dẫn, kiểu như "Bí mật đường dây ma túy", "Người đàn bà sau bức rèm xanh", "Người đàn bà lừng danh của vũ trường"... rồi đem sách đến các nhà xuất bản. Các nhà xuất bản nhận in, tuy nhiên với nhuận bút vô cùng ...hẻo. Cha viết hì hụi cả mấy tháng trời, có khi cả năm trời, cuốn sách khoảng 300-400 trang của cha chỉ được in khoảng vài ngàn cuốn và được trả khoảng vài triệu đồng nhuận bút. Thế là cha phải dùng mưu mẹo, đầu tiên gửi in truyện dài kỳ trên các báo để kiếm nhuận bút của báo, sau đó in một lần ở một nhà xuất bản, rồi đổi tên sách đã in để in tiếp ở một nhà xuất bản khác. Cha hay khoe sách của cha được hai đến ba lần nhuận bút, và thế cũng chưa bõ công ngồi cặm cụi viết ròng rã cả năm trời. Thời đó chưa có máy vi tính, cha toàn ngồi trên giường gò lưng mà viết trên giấy tiết kiệm một mặt. Rất may là chữ viết của cha rất đẹp, rất chân phương, viết đến đâu đạt đến đấy, hầu như không phải sửa sang, chỉnh lý gì. Viết xong, cha đóng thành tập, đem đi sao chụp vài bản rồi gửi đi cho các báo cùng vài nhà xuất bản một lúc. Các báo và các nhà xuất bản cũng ít khi phải biên tập lại sách của cha, cứ thế in và phát hành. Cha viết rất khỏe, rất chăm. Thời gian ở Vũng Tàu, cha viết được rất nhiều. Hầu hết những cuốn sách của cha ra đời trong thời gian này. Chỉ sau khoảng 15 năm từ lúc về hưu, cha đã có khoảng 30 đầu sách được in, tức là mỗi năm khoảng hai cuốn sách ra đời. Vì được lĩnh hai đến ba lần nhuận bút cho mỗi cuốn sách, cha cũng có đủ tiền tiêu vặt, trà thuốc, nhậu nhẹt với bạn văn. Cha nói, có mấy chục đầu sách mà chẳng phải hội viên Hội nhà văn, vì cha không chạy chọt để vào hội làm gì. Tuy nhiên cha quen biết nhiều trong giới văn nghệ sĩ, biết nhiều chuyện thâm cung bí sử mà thời đó chưa có internet người ta chỉ có thể biết qua truyền miệng trong giới văn nghệ sĩ.
Có lần cha nói tôi tìm trên mạng cho cha những tác phẩm văn chương trái chiều. Những tác giả Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Bùi Ngọc Tấn … với những cuốn sách văn học trái chiều nhưng tuyệt hay được tôi tìm kiếm in ra cho cha đọc. Cũng nhờ có cha mà tôi tìm đọc được những cuốn sách bất hủ như “Hoa xuyên tuyết”, “Đêm giữa ban ngày”, “Chuyện kể năm 2000”…
Lúc đó internet chưa phổ biến như bây giờ. Tôi cũng khá bận rộn với công việc nên đã không làm được cho cha 1 trang web văn chương riêng như cha hằng ao ước. Đây cũng là một nỗi hối tiếc khôn nguôi của tôi cùng với việc không dẫn được cha ra khỏi biên giới đi du lịch.
Cha thường nói với các con, "lập thân tối hạ thị văn chương", không nên lấy văn làm nghiệp như cha, mà chỉ nên lấy nó làm thú vui. Đến bây giờ, trong nhà tôi không ai lấy văn làm nghiệp, có lẽ một phần cũng do "biết mình sức yếu", âu cũng là may mắn. Tuy nhiên hình như được di truyền cái gen "văn nghệ" của cha, mấy anh em trong nhà ai cũng mê văn chương. Mê say thì không sao, có lẽ cuộc đời sẽ phong phú hơn, lãng mạn hơn, sâu sắc hơn khi người ta có thêm một thú vui tao nhã là văn chương. Chứ còn lấy văn chương làm nghiệp thì đến bây giờ câu than của nhà văn Nguyễn Vỹ ngày xưa “Nhà văn An Nam khổ như chó” vẫn là chí lý.

No comments:

Post a Comment